Những điều cần biết về chất lượng nước ao nuôi tôm
Trong nuôi tôm thâm canh, chất lượng nước ao nuôi tôm luôn là vấn đề quan trọng mà người nông dân luôn phải chú ý. Chất lượng nước ao nuôi tôm có tốt, thì tôm nuôi mới mau lớn, khỏe mạnh và có năng suất. Có rất tiêu chí để đánh giá chất lượng nước như Nhiệt độ, độ mặn…Trong khuôn khổ bài viết hôm nay, Bác Sĩ Nhà Nông xin nêu ra Những điều cần biết về chất lượng nước ao nuôi tôm để bà con cùng tham khảo.
Những điều cần biết về chất lượng nước ao nuôi tôm
Nhiệt độ: Chất lượng nước ao nuôi tôm đầu tiên cần chú ý
Nhiệt độ trong ao nuôi tôm nên đạt mức 26 – 30 độ C, sẽ giúp cho tôm lớn nhanh, tỷ lệ sống cao và phát triển tốt.
Có khá nhiều các yếu tố ảnh hưởng đến nhiệt độ nước như: ánh nắng mặt trời, mưa, gió, quạt nước. Khi trời nắng gắt sẽ khiến nước nóng lên, và nếu trời có gió thì lớp nước mặt sẽ được khuấy đều tuy nhiên tác dụng không sâu. Điều này khiến xuất hiện tình trạng phân lớp nhiệt độ nước, trên nóng dưới lạnh bất lợi cho tôm.
Nhiệt độ nước nuôi ảnh hưởng rất lớn đến lượng oxy trong nước, nước càng nóng càng ít oxy hòa tan. Tuy nhiên nhu cầu oxy của tôm rất lớn, từ chuyển hóa trao đổi chất trên tôm đến phân hủy các chất bẩn trong nước. Nước quá nóng sẽ rất nguy hiểm do dễ gây ra tình trạng thiếu oxy cục bộ. Hiện tượng thiếu oxy do nhiệt độ cao được gọi là nhiễm nhiệt.
Nhiệt độ nước thay đổi theo từng khoảng thời gian trong ngày và phân tầng nhiệt độ nước. Vào ban ngày lớp nước mặt nóng lên do tác động của ánh nắng trong khi lớp nước đáy nóng lên chậm hơn. Nước nóng nhẹ hơn nước lạnh nên nổi lên trên và chênh lệch nhiệt độ giữa 2 tầng, cho nên vào những ngày nắng nên chủ động khuấy nước để điều tiết nhiệt độ. Ban đêm, nước mặt nguội đi nhanh hơn nước mặt nên chìm xuống đáy, nghĩa là nước tự khuấy đảo và tự điều nhiệt.
Nước mưa ngọt và nhẹ hơn nước lợ, vì vậy nước mưa sẽ nổi trên mặt mà không chìm xuống, dẫn đến sự phân tầng, lớp nước dưới cạn dần ôxy làm cho tôm ngộp. Chính vì vậy ao phải có ống xả tràn để có thể xả lớp nước mưa trên mặt.
Sự thay đổi đột ngột nhiệt độ nước cũng làm tôm có thể chết. Cần đặc biệt quan tâm đến điều này khi đưa tôm từ trại giống về. Cần để bịch tôm vào nước sao cho nhiệt độ nước có tôm dần trở về nhiệt độ ở ao thích nghi, rồi mới thả tôm vào ao thích nghi. Sau khi tôm ở ao thích nghi và môi trường trong ao này về dần môi trường ao nuôi thì mới chính thức thả giống vào ao nuôi.
Độ muối (độ mặn)
Yếu tố chất lượng nước ao nuôi tôm thứ 2 mà bà con cần chú ý đó là Độ mặn của nước. Nước ở những vùng khác nhau có độ mặn khác nhau, dao động từ 20 – 250 mg/l (0.02 – 0.25 ‰). Ta cảm thấy vị mặn khi nồng độ muối là 1 ‰. Phần lớn các loại tôm cá nước ngọt chịu được độ muối đến 2‰.
Tính độ mặn của nước pha loãng từ nước biển và nước ngọt là: Độ mặn nước biển (35 ‰) × Thể tích nước mặn: (thể tích nước mặn + thể tích nước ngọt). Ví dụ: pha loãng 1 nước biển và 2 nước ngọt thì độ mặn sẽ là 35‰ × 1 : (2+1) = 12 ‰.
Độ muối thích hợp cho tôm sú và tôm thẻ chân trắng là 5 – 35 (‰). Tôm nuôi ở độ mặn cao dễ bị dịch bệnh, nhất là các bệnh virus đốm trắng, đầu vàng, vi khuẩn phát sáng và vi khuẩn gây bệnh gan tụy. Vì vậy, tỏ chức nông lương thế giới khuyến cáo nên nuôi tôm ở độ mặn thấp (<10‰).
Tôm thẻ chân trắng chịu đựng độ mặn thấp tốt hơn tôm sú; ngoài ra tôm thẻ chân trắng còn sinh trưởng nhanh hơn, thời gian nuôi ngắn và nuôi được ở mật độ cao. Khi nuôi tôm thẻ chân trắng ở độ mặn thấp chỉ nên thả mật độ vừa phải (80 – 100 con/m2).
Sự thay đổi độ muối đột ngột làm tôm mệt mỏi và có thể chết do đó cần có rãnh ngăn nước mưa xung quanh chảy vào đầm làm giảm đột ngột độ muối, cũng như bổ xung nước ngọt nếu nước bay hơi làm thay đổi chất lượng nước ao nuôi tôm với độ muối tăng quá cao.
Hạ độ mặn trong ao thích nghi
Tôm giống được ương từ bể nuôi có độ mặn trên 20‰. Cho nên khi mang tôm giống về, điều cần làm trước tiên là phải cho tôm giống thích nghi dần với điều kiện ao nuôi thực tế trước khi tiến hành thả nuôi. Quá trình này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nuôi sau này, nếu bỏ qua có thể không gây chết tôm, thế nhưng tôm chậm phát triển ở tương lai.
Để tập cho tôm quen với độ mặn ao nuôi, ta sử dụng ap hoặc bể thích nghi. Ao thích nghi có độ mặn cao tương tự như ở trại giống, tiến hành hạ độ mặn từ từ để tránh sốc cho tôm. Cứ 3 giờ hạ 1 lần, không quá 2 % mỗi lần cho đến khi độ mặn trong ao thích nghi bằng với ao nuôi.
Sau khi thả tôm giống, trong tháng đầu tiên không nên nuôi với độ mặn dưới 7-8‰ để tránh việc tôm bị sốc. Tháng thứ 2 nên châm nước ngọt
Trong tháng nuôi đầu tiên, độ mặn thả nuôi không nên thấp hơn 7 – 8‰ nhằm giảm tối đa việc gây sốc tôm. Tháng thứ 2, nên châm thêm nước ngọt vào ao để hạ độ mặn ao nuôi xuống dần nhưng không dưới 5‰ vì nếu độ mặn thấp hơn 5‰ thì tôm dễ bị còi cọc, mềm vỏ, tỷ lệ sống thấp.
Không nên trực tiếp lấy nước từ kênh mương vào ao nuôi mà phải có ao lắng diện tích 15 – 20% so với ao nuôi và độ sâu tối thiểu 1,5 mét, để có đủ nước cấp cho ao nuôi. Để lắng và xử lý nước ít nhất 6 ngày trước khi cấp vào ao nuôi.
Tính lượng nước pha trộn: Giả sử cần pha trộn nước có độ mặn cao X1 với nước có độ mặn thấp X2 để có nước có độ mặn X3. Một cách gần đúng có thể tính lượng nước pha trộn như sau.
V1 : V2 = (X3 – X2): (X1 – X3)
Ví dụ 1: Pha nước có X1 = 35‰ bằng nước ngọt X2 = 0,02‰ để có nước X3 = 10‰ thì V1:V2 = (10 – 0,02) : (35 – 10) = 10 : 25; nghĩa là lấy 10 phần nước biển pha với 25 phần nước ngọt.
Ví dụ 2: Ao thích nghi có thể tích là 40 m3 với X1 = 20‰, cần giảm độ mặn thành X3=18‰ bằng nước ngọt với X2= 0,02‰ V1:V2 = (18 – 0,02) : (20 – 18) = 18 : 2 = 9; V2 = 40 m3: 9 = 4,44 m3, nghĩa là phải thêm 4,5 m3 nước ngọt.
Lưu ý khi sử dụng nước giếng khoan
Nước giếng khoan thường có hàm lượng chất khử cao hơn so với nước ngọt sông hồ, thế ôxy-hóa khử thấp, pH thấp (trừ ở vùng núi đá vôi) và tỉ lệ giữa các khoáng khác hẳn với nước sông hồ và nước biển. Ngoài ra, nước giếng khoan có ít ôxy thấp và nhiều CO2, do đó việc dùng nước giếng khoan vừa bơm lên để vận chuyển con nuôi hay đưa vào các bể ương và ao nuôi là rất nguy hiểm. Ngoài các vấn đề trên,chất lượng nước ao nuôi tôm bằng nước giếng khoan thường có nồng độ phosphate, nitrate và ammoniac cao hơn bình thường; và thường có hàm lượng sắt, mangan và các kim loại nặng cao; đôi khi có nồng độ sunphua hiđrô cao – khí cực độc cho con nuôi. Để hạn chế ảnh hưởng của kim loại nặng thì nên dùng hợp chất tạo phức bền với kim loại mạnh như muối EDTA
Ở đồng bằng sông Cửu long,chất lượng nước ao nuôi tôm bằng nước giếng khoan lợ hay mặn, đều có hàm lượng khoáng thấp, nên phải bổ xung khoáng.
Do các lý do kể trên khi dùng nước giếng khoan thì nhất thiết phải đưa nước đi kiểm tra để có biện pháp xử lý phù hợp.
Nước lợ nhân tạo
Ở những vùng không có nước lợ tự nhiên, bà con ta thường tạo nước lợ bằng cách pha muối công nghiệp (muối thô) và một số muối và hóa chất phụ trợ khác như muối Canxi, Magiê, Kali, EDTA… Các “đơn pha” nước lợ có sẵn trên mạng. Tuy nhiên các “đơn” này được tính dựa trên hàm lượng muối tinh, nghĩa là muối ăn chỉ chứa NaCl. Thực chất muối thô ngoài NaCl còn chứa nhiều kim loại khác, như Mg, Ca, K. Hàm lượng các muối này phụ thuộc vào công nghệ sản xuất muối từ nước biển cũng như điều kiện làm muối.